Thiết kế HMS Lion (1910)

Lớp tàu chiến-tuần dương Lion được thiết kế để vượt trội hơn những tàu chiến-tuần dương mới của Đức thuộc lớp Moltke, vốn được Hải quân Đức chế tạo nhằm đối phó với lớp Invincible của Anh. Sự gia tăng về tốc độ, vỏ giáp và vũ khí đã khiến kích cỡ của chúng tăng hơn 65% so với lớp Indefatigable, khiến cho chúng trở thành những tàu chiến lớn nhất thế giới vào lúc đó.[5]

Các đặc tính chung

Lion lớn hơn đáng kể so với lớp Indefatigable dẫn trước. Nó có chiều dài chung 700 foot (213,4 m), mạn thuyền rộng 88 foot 7 inch (27,0 m), và độ sâu của mớn nước là 32 foot 5 inch (9,9 m) khi đầy tải nặng. Con tàu có trọng lượng choán nước là 26.270 tấn Anh (26.690 t), và lên đến 30.820 tấn Anh (31.310 t) khi đầy tải nặng, hơn 8.000 tấn Anh (8.100 t) so với các con tàu trước đó. Nó có một chiều cao khuynh tâm 6 foot (1,8 m) khi đầy tải nặng.[6]

Động lực

Sơ đồ mạn trái và sàn tàu của lớp Lion, lấy từ Jane's Fighting Ships 1918

Lion có hai bộ turbine hơi nước Parsons dẫn động trực tiếp được đặt trong các phòng động cơ riêng biệt. Các trục phía ngoài được nối với các turbine áp lực cao, hơi nước thoát ra được dẫn vào các turbine áp lực thấp dẫn động trục phía trong. Một tầng giảm tốc chạy đường trường được chế tạo vào vỏ của mỗi turbine áp lực cao phía trước để di chuyển ở tốc độ thấp.[7] Hai chân vịt ba cánh phía trong của nó có đường kính 12 foot 3 inch (3,73 m) trong khi cặp chân vịt phía ngoài có đường kính 11 foot 8 inch (3,56 m). Turbine được cung cấp hơi nước từ 42 nồi hơi ống nước Yarrow bố trí trong 7 phòng nồi hơi.[8] Chúng được thiết kế để cung cấp tổng công suất 70.000 mã lực càng (52.199 kW), nhưng đã đạt đến trên 76.000 shp (56.673 kW) khi chạy thử máy, cho dù Lion không vượt hơn tốc độ thiết kế 28 hải lý một giờ (52 km/h; 32 mph) dành cho nó.[9]

Nó có thể mang theo tối đa 3.500 tấn Anh (3.600 t) than cùng 1.135 tấn Anh (1.153 t) dầu đốt để phun vào than nhằm gia tăng tốc độ cháy.[10] Ở trữ lượng nhiên liệu tối đa, tầm xa hoạt động của chúng là 5.610 hải lý (10.390 km) ở tốc độ 10 hải lý một giờ (12 mph; 19 km/h).[3]

Vũ khí

Lion trang bị tám khẩu pháo BL 13,5 in (340 mm) Mark V trên bốn tháp pháo nòng đôi vận hành bằng thủy lực, được đặt tên lần lượt là 'A', 'B', 'Q' và 'Y' từ trước ra sau. Dàn pháo hạng hai của chúng bao gồm mười sáu khẩu BL 4 in (100 mm) Mk VII, hầu hết được đặt trong các tháp pháo ụ.[11] Hai khẩu đội pháo 4 inch thuộc nhóm phía trước, được đặt trong ụ che trong giai đoạn 19131914 để bảo vệ pháo thủ của khẩu đội khỏi hoàn cảnh thời tiết khắc nghiệt và hoạt động của đối phương. Nhóm pháo 4 inch phía trước bên mạn phải được tháp dỡ sau tháng 4 năm 1917.[12]

Nó được chế tạo mà không có súng phòng không, nhưng một khẩu kiểu QF 6 pounder Hotchkiss trên bệ MkIc góc cao đã được ổ sung trong giai đoạn từ tháng 10 năm 1914 đến tháng 7 năm 1915,[11] có khả năng hạ đến 8° và nâng tối đa lên đến 60°. Nó bắn ra đạn pháo nặng 6 pound (2,7 kg) với lưu tốc đầu đạn 1.765 ft/s (538 m/s) và tốc độ bắn 20 viên mỗi phút. Trần bắn tối đa là 10.000 ft (3.000 m), nhưng tầm bắn hiệu quả chỉ đạt 1.200 thước Anh (1.100 m).[13] Ngoài ra còn có một khẩu QF 3 inch 20 cwt[Ghi chú 1] trên bệ MkII góc cao được tăng cường vào tháng 1 năm 1915, rồi được bổ sung thêm một khẩu nữa vào tháng 7 năm đó; chúng có khả năng hạ đến 10° và nâng tối đa lên đến 90°. Nó bắn ra đạn pháo nặng 12,5 pound (5,7 kg) với lưu tốc đầu đạn 2.500 ft/s (760 m/s) và tốc độ 12–14 viên mỗi phút. Trần bắn hiệu quả của kiểu pháo này là 23.500 ft (7.163 m).[14] Hai ống phóng ngư lôi ngầm 21 inch (530 mm) được trang bị bên mạn,[3] con tàu mang theo 14 quả ngư lôi.[11]

Vỏ giáp

Sơ đồ vỏ giáp bảo vệ cho Lion nặng hơn so với những chiếc thuộc lớp Indefatigable; đai giáp ở mực nước làm bằng vỏ giáp Krupp dày đến 9 inch (229 mm) ở khoảng giữa con tàu so với 6 in (152 mm) trước đây. Nó được vuốt mỏng còn 4 inch (102 mm) về phía hai đầu con tàu, nhưng không đến tận mũi và đuôi. Đai giáp trên với độ dày tối đa 6 inch (152 mm) trên cùng chiều dài phần dày nhất của đai giáp ở mực nước, giảm còn 5 inch (127 mm) ngang với các tháp pháo tận cùng.[15] Các tháp pháobệ tháp pháo được bảo vệ bởi vỏ giáp dày 8–9 inch (203–229 mm), ngoại trừ nóc tháp pháo dày 2,5–3,25 inch (64–83 mm)[Chuyển đổi: Số không hợp lệ]. Độ dày của sàn tàu bọc thép nickel thay đổi 1–2,5 inch (25–64 mm)[Chuyển đổi: Số không hợp lệ]; vách ngăn chống ngư lôi bằng thép nickel dày 2,5 inch (64 mm) được đặt ngang các hầm đạn và phòng đạn pháo.[16] Sau khi trận Jutland bộc lộ ra sự mong manh của con tàu đối với đạn pháo bắn tới, một lớp vỏ giáp bổ sung dày 1 inch nặng khoảng 100 tấn Anh (102 t)[17] được tăng cường cho bệ tháp pháo bên trên hầm đạn và nóc tháp pháo.[18]

Các cải biến trong thời chiến

Lion được nâng cấp hệ thống kiểm soát hỏa lực từ giữa năm 1915 đến tháng 5 năm 1916, tập trung việc định vị và khai hỏa các khẩu pháo dưới sự điều khiển từ máy đo tầm xa đặt trên cột ăn-ten chính. Pháo thủ tại các tháp pháo chỉ cần tuân theo con trỏ được điều khiển từ bộ kiểm soát hỏa lực để hướng khẩu pháo đến mục tiêu. Điều này đã cải thiện đáng kể độ chính xác, vì nó dễ dàng trinh sát điểm rơi của pháo, đồng thời hạn chế ảnh hưởng của sự chòng chành con tàu trên sự phân tán của đạn pháo.[19]

Đến đầu năm 1918, Lion mang theo một thủy phi cơ kiểu Sopwith Pup và một Sopwith 1½ Strutter đặt trên các bệ cất cánh bố trí trên nóc các tháp pháo 'Q' và 'X'. Mỗi bệ có vải bạt để bảo vệ máy bay khỏi các yếu tố thời tiết.[20]